Đối tượng điều chỉnh của ngành luật hành chính

0
40

 Đối tượng điều chỉnh của ngành luật hành chính

Đối tượng điều chỉnh là tiêu chuẩn chủ yếu để phân biệt ngành luật này với ngành luật khác. Trong đó, đối tượng điều chỉnh của ngành Luật hành chính Việt Nam là những quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực quản lí hành chính nhà nước.

Khái quát chung về đối tượng điều chỉnh của ngành luật hành chính

Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là những nhóm quan hệ xã hội xác định, có đặc tính cơ bản giống nhau và do những quy phạm thuộc ngành luật đó điều chỉnh. Đối tượng điều chỉnh là tiêu chuẩn chủ yếu để phân biệt ngành luật này với ngành luật khác

Luật hành chính Việt Nam điều chỉnh những quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực quản lí hành chính nhà nước. Những quan hệ này có thể gọi là những quan hệ chấp hành – điều hành hoặc những quan hệ quản lí hành chính nhà nước. Nội dung của những quan hệ này thể hiện:

  • Việc thành lập, cải tiến cơ cấu bộ máy, cải tiến chế độ làm việc, hoàn chỉnh các quan hệ công tác của các cơ quan nhà nước;
  • Hoạt đông quản lí kinh tế, văn hoá-xã hội, quốc phòng, an ninh chính trị và trật tự xã hội trên cả nước, ở từng địa phương hay từng ngành;
  • Trực tiếp phục vụ các nhu cầu về vật chất và tinh thần của nhân dân;
  • Hoạt động kiểm tra, giám sát đối với việc thực hiện pháp luật của các cơ quan, đơn vi trực thuộc, các tổ chức và cá nhân.
  • Xử lí các cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm trật tự quản lí hành chính.

Xem thêm: Ngành luật hành chính

Xem thêm: Luật hành chính là gì

Các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của luật Hành chính

[1] Các quan hệ quản lí phát sinh trong quá trình các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành – điều hành trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội

Đây là đối tượng điều chỉnh cơ bản của luật hành chính. Thông qua việc thiết lập những quan hộ loại nàv các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện chức năng cơ bản của minh. Những quan hộ loại này rất phong phú, chủ yếu là những quan hệ sau:

+ Giữa cơ quan hành chính cấp trên với cơ quan hành chính cấp dưới theo hệ thống dọc (như giữa Chính phủ với ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh) hoặc vơi cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh (như giữa Bộ giáo dục và đào tạo với sở giáo dục và đào lạo thành phố Hải Phòng).

+ Giữa cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung với cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cùng cấp (Chính phủ với các bộ, cơ quan ngang bộ); giữa cơ quan hành chính có thẩm quyền chung với cơ quan chuyên môn trực thuộc nó (Chính phủ với các cơ quan chuyên môn của nó như: ban quản lý lăng chủ tịch Hồ Chí Minh; bảo hiểm xã hội Việt Nam; thông tấn xã Việt Nam; học viện chính trị – hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; viện khoa học và công nghệ Việt Nam; viện khoa học xã hội Việt Nam; đài tiếng nói Việt Nam; đài truyền hình Việt Nam hoặc giữa ủy ban nhân dân tỉnh các cơ sở nội vụ, tài chính, lao động thương binh xã hội…

+ Giữa cơ quan hành chính có thẩm quyền chuyên môn ở trung ương với cơ quan hành chính có thẩm quyền chung ở cấp tỉnh như: Bộ nông nghiệp và phát triển nông thông với ủy ban nhân dân cấp tỉnh Cao Bằng; Bộ tài nguyên và môi trường với úy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn…

+ Giữa cơ quan hành chính có thẩm quyền chuyên môn ở trung ương khác nhau: các bộ, cơ quan ngang bộ với nhau, cơ quan này có một số quyền hạn đối với cơ quan kia trong lĩnh vực quản lí chức năng nhất định song giữa các cơ quan đó không có sự lệ thuộc về mặt tổ chức. Trong các quan hệ loại này, chủ thể quản lí là các cơ quan chuyên môn có chức năng tổng hợp, phụ trách một lĩnh vực chuyên môn như cư quan tài chính, lao động – thương binh và xã hội… Các cơ quan này có quyền hạn nhất định đôi với các cơ quan chuyên môn khác trong các lĩnh vực chuyên môn mà họ phụ trách (giữa Bộ tài chính với Bộ giáo dục và đào tạo trong việc quản lí ngân sách nhà nước).

Giữa cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương với các đơn vị trực thuộc cơ quan hành chính ở trung ương đóng tại địa phương đó. Trong quan hệ này thì không có quan hệ về tổ chức nhưng có quan hệ về hoạt động (ủy ban nhân dân quận Đống Đa với Trường đại học luật Hà nội).

+ Giữa cơ quan hành chính với các đơn vị cơ sở trực thuộc như: giữa Bộ tư pháp với Trường Đại học Luật Hà Nội.

+ Giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Các tổ chức kinh tế này phải đặt dưới sự quản lý thường xuyên của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương nơi đóng trụ sở như: giữa ủy ban nhân dân huyện với các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp trên địa hàn huyện

+ Giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức xã hội như: giữa Chính phủ với Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.

+ Giữa cơ quan hành chính nhà nước với công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch như: giữa cơ quan có thẩm quyền giải quvết khiếu nại với người khiếu nại.

[2] Các quan hệ quản lí hình thành trong quá trình các cơ quan nhà nước xây dựng và củng cố chế độ công tác nội bộ của cơ quan nhằm Ổn định về tổ chức để hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình

Người lãnh đạo và một bộ phận công chức của các cơ quan trong bộ máy nhà nước được trao quyền tiến hành hoạt động tổ chức trong giới hạn cơ quan. Hoạt động này còn được gọi là hoạt động tổ chức nội bộ, khác với hoạt động hướng ra bên ngoài. Để cơ quan nhà nước có thể hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình, hoạt động quản lí nội bộ cần được tổ chức tốt, đặc biệt là những hoạt động như kiểm tra nội bộ, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ công chức, phối hợp hoạt động giữa các bộ phận của cơ quan, công việc vãn phòng, đảm bảo những điều kiện vật chất cần thiết..

Hoạt động tổ chức nội bộ giữ vai trò đặc biệt quan trọng, tạo điều kiện cần thiết cho các cơ quan nhà nước thực hiện tốt chức năng cơ bản của mình. Tuy nhiên, cần lưu ý nếu cổng tác tổ chức nội bộ vượt quá giới hạn bình thường, nếu bộ máy nhà nước dành quá nhiều thời gian và sức lực cho công tác tổ chức nội bộ, nếu có quá nhiều cơ quan trung gian thì hiệu quả của quản lí giám sát.

Mỗi cơ quan nhà nước có chức năng cơ bản riêng và để hoàn thành chức năng cơ bản của minh các cơ quan nhà nước phải tiến hành những hoạt động quản lí hành chính nhất định.

[3] Các quan hệ quản lí hình thành trong quá trình các cá nhân và tổ chức được nhà nước trao quyền thực hiện hoạt động quản lí hành chính nhà nước trong một số trường hợp cụ thể do pháp luật quy định

Trong thực tiễn quản lí hành chính nhà nước, trong nhiều trường hợp, pháp luật có thế trao quyền thực hiện hoạt động chấp hành – điều hành cho các cơ quan nhà nước khác (không phải là cơ quan hành chính nhà nước), các tổ chức hoặc cá nhân. Hoạt động trao quyền được tiến hành trên cơ sở những lí do khác nhau: chính trị. tổ chức, đảm bảo hiệu quả.. Vì vậy, hoạt động quán lí hành chính nhà nước không chi do các cơ quan hành chính nhà nước tiến hành.

Hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân được trao quyền có tất cả những hậu quả pháp lí như hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước nhưng chỉ trong khi thực hiện hoạt động chấp hành – điều hành cụ thể được pháp luật quy định. Hoạt động nào cần được phân biệt rõ với hoạt động cơ bán của cơ quan nhà nước được trao quyền (chính cái đó quy định tính chất của cơ quan và của các mối quan hệ). Xem xét vấn đề từ hướng khác cho thấy cơ quan hành chính nhà nước không chỉ thực hiện hoạt động chấp hành – điều hành mà còn được uỷ quyền lập pháp và tiến hành hoạt động tài phán trong những trường hợp nhất định như trao quyền cho các nhân, tổ chức trong bộ máy nhà nước như: tòa án nhân dân, thẩm phán chủ tọa phiên tòa…Trao quyền cho cá nhân, tổ chức không phải trong bộ máy nhà nước: chỉ huy tàu bay, tàu biển khi rời sân bay, bến cảng…

Tổng hợp từ Giáo trình Luật Hành chính – Đại học Luật Hà Nội

TRẢ LỜI

Vui lòng nhập bình luận của bạn!
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây