Trang chủ Kiến thức hành chính Sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất

Sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất

0
246

Để có đáp án nhanh nhất trong lĩnh vực pháp luật hành chính, gọi Tổng đài tư vấn pháp luật (24/7): 1900 6198

Đánh giá post

Sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất là hai hình thức sở hữu thuộc sở hữu chung. Vậy Sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất là gì? Pháp luật quy định thế nào về hai hình thức này? 

Để có đáp án nhanh nhất trong lĩnh vực pháp luật hành chính, gọi Tổng đài tư vấn pháp luật (24/7): 1900 6198

Contents

Quy định của pháp luật về sở hữu chung theo phần

Sở hữu chung theo phần là gì?

Khoản 1 Điều 209 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS) quy định: “Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung.” Trong sở hữu chung theo phần, mỗi đồng chủ sở hữu biết trước được tỷ lệ phần quyền của mình đối với khối tài sản chung. Phần quyền đó có thể bằng nhau hoặc không bằng nhau.

Phần quyền được xác định trước này là đối với toàn bộ tài sản thuộc sở hữu chung của tất cả các đồng chủ sở hữu. Do vậy, phần tài sản của các đồng chủ sở hữu trong sở hữu chung theo phần bao giờ cũng phải được biểu hiện bằng những đơn vị số học cụ thể. Thông qua đơn vị số học mà thấy được phần quyền của mỗi đồng chủ sở hữu là bao nhiều trong khối tài sản chung. Ví dụ: 1/2; 1/3; 1/4 tổng số tài sản.

Cùng với việc xác định tỷ lệ phần quyền, thì việc xác định nghĩa vụ của mỗi một đồng chủ sở hữu đối với tài sản chung cũng theo nguyên tắc: Nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền của chủ sở hữu chung dó (nếu các đồng chủ sở hữu chung không có thoả thuận khác).

Quyền lợi của các đồng chủ sở hữu

Trong sở hữu chung theo phần, quyền lợi của các đồng chủ sở hữu có liên quan mật thiết với nhau khi họ thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu. Vì vậy, khi thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản thuộc sở hữu chung theo phần phải được tiến hành trên cơ sở thoả thuận và nhất trí giữa các đồng chủ sở hữu. Điều 216 BLDS đã quy định: “Các chủ sở hữu chung cùng quản lý tài sản chung theo nguyên tắc nhất trí, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.

Điều này thể hiện ở việc các đồng chủ sở hữu phải cùng nhau bàn bạc để thống nhất về cách bảo quản, sử dụng tài sản trên cơ sở của nguyên tắc tự do, tự nguyên cam kết, thoả thuận. Mọi thoả thuận hợp pháp của các đồng chủ sở hữu đều có hiệu lực bắt buộc và cũng là cơ sở pháp lý để giải quyết khi có tranh chấp.

Mặc dù phần quyền của mỗi người có thể không bằng nhau nhưng tài sản trong sở hữu chung theo phần là một thể thống nhất, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Quyền của mỗi một người là bao trùm đối với toàn bộ tài sản nên họ phải được quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu và sử dụng tài sản chung. Ví dụ: Gia súc để cày, kéo được mua chung, thì mỗi người khi sừ dụng phải sử dụng cả gia súc đó mới khai thác được công dụng.

Khi tài sản thuộc sở hữu chung được sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh mà sinh lợi, thì số lợi đó sẽ được chia cho các đồng chủ sở hữu theo tỷ lệ phần quyền tương ứng của mỗi người. Khoản 1 Điều 217 BLDS xác định: “Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.” Tương tự như vậy khi phải chi phí để duy trì, củng cố tài sản chung thì mỗi đồng chủ sở hữu cũng phải chịu một phần chi phí theo tỷ lệ phần quyền của người đó.

Định đoạt tài sản chung của các đồng chủ sở hữu

Việc định đoạt tài sản chung của mỗi một đồng chủ sở hữu là việc định đoạt phần quyền của họ trong khối tài sản chung. Mỗi một đồng chủ sở hữu có toàn quyền trong việc định đoạt phần quyền của mình đối với tài sản thuộc sở hữu chung mà không một ai có quyền ngăn cản. Việc chuyển phần quyền của một đồng chủ sở hữu thông qua việc mua, bán, cho, đổi, thừa kế… cho một người khác hoàn toàn không phải là việc trao cho người khác đủ một phần cụ thể của tài sản.

Nói cách khác, việc định đoạt đó làm chấm dứt phần quyền của người đó nhưng lại làm xuất hiện quyền sở hữu của một người khác đối với toàn bộ tài sản là một khách thể thống nhất trong sở hữu chung theo phần (khi một đồng chủ sở hữu chung khác được quyền ưu tiện mua theo quy đinh tại Điều 218 BLDS).

Sở hữu chung theo phần là hình thức cộng hợp phần tài sản của các đồng chủ sở hữu để cùng sản xuất, sử dụng, góp phần khai thác, tận dụng được mức tối đa giá tri sử dụng tài sản. Sở hữu chung theo phần là cơ sở pháp lý để về chủ sở hữu liên doanh, liên kết, chung vốn mua sắn các tài sản hoặc xây dụng các công trình mà nếu một chủ thể riêng biệt thì không đủ khả năng để thực hiện.

Điều kiện của sở hữu chung theo phần

Do có tính chất đặc thù nên sở hữu chung theo phần được xuất hiện khi có một trong những điều kiện:

Do nhiều người cùng chung công sức để tạo ra một tài sản;

Do góp tiền để mua sắm tài sản hoặc để xây dựng chung một công trình;

Do cùng được tặng cho hoặc cùng được thừa kế chung một tài sản. Sở hữu chung là một quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu nên nó cũng chấm dứt khi có những sự kiện pháp lý quy định tại Điều 220 BLDS. Việc chia tài sản thuộc sở hữu chung được thực hiện theo quy định của Điều 219 BLDS.

Quy định của pháp luật về sở hữu chung hợp nhất

Sở hữu chung hợp nhất là gì?

Sở hữu chung hợp nhất là hình thức sở hữu của hai hay nhiều chủ thể đối với một khối tài sản chung. Sở hữu chung hợp nhất bao gồm sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở hữu chung hợp nhất không phân chia. Tính chất đặc thù của sở hữu chung hợp nhất được quy định tại khoản 1 Điều 210 BLDS: “Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó, phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung.”

Sở hữu chung hợp nhất phát sinh trong quan hệ pháp luật nào?

Thông thường quyền sở hữu chung hợp nhất chỉ phát sinh trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Điều 213 BLDS xác định Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.. Đó là khối tài sản do vợ chồng làm ra trong thời kỳ hôn nhân bằng công sức của mỗi người hoặc do được tặng cho chung, thừa kế chung.

Tài sản chung của vợ chồng được dùng vào việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng hoặc sản xuất kinh doanh của cả gia đình. Vợ chồng đều có quyền ngang nhau đối với khối tài sản chung. Vợ chồng cùng bàn bạc, thoả thuận hoặc uỷ quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Khi một trong hai người thực hiện giao dịch mà tài sản có giá trị lớn phải được sự đồng ý của bên kia.

Ví dụ: Khi bán nhà là tài sản chung hợp nhất của vợ, chồng phải được sự đồng ý bằng văn bản (uỷ quyền, hoặc thể hiện bằng chữ ký) của người kia .

Pháp luật dân sự và hôn nhân và gia đình quy định như vậy nhằm bảo đảm cho vợ chồng được bình đẳng trong quan hệ gia đình, xoá bỏ chế độ gia trưởng trong gia đình. Cùng với việc quy định tài sản chung, Luật hôn nhân và gia đình 2014 cũng quy định về tài sản riêng của vợ và chồng. Đó là tài sản có trước thời kỳ hôn nhân hoặc được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân. Vợ, chồng có thể tự nguyện nhập khối tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của gia đình.

Như vậy, khi hôn nhân còn tồn tại, không thể xác định được phần tài sản cụ thể của vợ, chồng trong khối tài sản chung. Họ có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất. Ngoài tài sản chung của vợ chồng, nếu gia đình đã có con trưởng thành, có thu nhập theo nghề nghiệp, được tặng cho hoặc được thừa kế và có đóng góp công sức, tiền vào việc duy trì, phát triển khối tài sản chung của gia đình, thì họ cũng có quyền sở hữu đối với khối tài sản chung của gia đình.

Phần tài sản cụ thể của mối người chỉ được xác định rõ ràng khi có một trong số họ chết mà những người thừa kế yêu cầu chia tài sàn của người chết, nếu tài sản này thuộc sở hữu chung của bố mẹ và các con; phần cụ thể của mỗi người còn được xác định nếu có lý do chính đáng và họ thoả thuận phân chia, hoặc tài sản được phân chia theo quyết định của Toà án khi ly hôn. Nếu vợ chồng ly hôn, về nguyên tắc tài sản sẽ được chia đôi, nhưng có xem xét đến công sức đóng góp vào việc duy trì và phát triển khối tài sản chung; có ưu tiên cho những người phải nuôi và chăm sóc con còn nhỏ.

Tóm lại: Trong sở hữu chung hợp nhất các chủ sở hữu chung có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung ngang nhau, nếu không có thoả thuận khác. Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này.

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

  1. Bài viết trong lĩnh vực pháp luật nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198, E-mail: info@everest.org.vn.

Không bình luận