Cách tính thời hạn xóa án tích theo quy định Bộ luật hình sự 2015

0
271

Tóm tắt câu hỏi:

Xin Luật sư giải đáp giúp tôi tình huống như sau: Vào ngày 15/10/2010, Nguyễn Văn A bị Tòa án nhân dân huyện H tuyên phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, buộc bị cáo phải bồi thường 10.500.000 đồng cho người bị hại. Đến ngày 12/12/2013, Nguyễn Văn A bị Tòa án nhân dân huyện K áp dụng tình tiết tái phạm tuyên phạt 6 tháng 15 ngày tù (thời hạn tù bằng thời hạn tạm giam) về tội “vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng”, A đã nộp án phí hình sự sơ thẩm vào ngày 10/6/2014. Đến ngày 16/9/2016, A lại phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, đã bị khởi tố theo Khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999. Vậy đối với thời hạn xóa án tích về tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng thì theo quy định có lợi cho người phạm tội, A đã đủ thời hạn để xóa án tích (02 năm). Nhưng trong trường hợp A chưa thi hành việc bồi thường số tiền 10.500.000 đồng của bản án trước (tức bản án về tội “Trộm cắp tài sản”) thì thời hạn tính xóa án tích theo quy định mới được tính như thế nào? Và A có được hưởng các quy định có lợi về xóa án tích hay không? Xin Luật sư tư vấn giúp. Tôi xin chân thành cảm ơn!

Công ty Luật TNHH Everest – Tổng đài tư vấn pháp luật (24/7): 1900.6198

Luật sư tư vấn:

Căn cứ Điều 67 Bộ luật Hình sự 1999 quy định cách tính thời hạn để xóa án tích như sau:

“Điều 67. Cách tính thời hạn để xoá án tích

1. Thời hạn để xoá án tích quy định tại Điều 64 và Điều 65 của Bộ luật này căn cứ vào hình phạt chính đã tuyên.

2. Nếu chưa được xoá án tích mà phạm tội mới, thì thời hạn để xoá án tích cũ tính từ ngày chấp hành xong bản án mới.

3. Việc chấp hành xong bản án bao gồm việc chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án.

4. Người được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại cũng được coi như đã chấp hành xong hình phạt.”

Theo quy định trên thì thời hạn xóa án tích căn cứ vào hình phạt chính đã tuyên; việc chấp hành xong bản án bao gồm việc chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án. Đối chiếu theo quy định trên vào trường hợp của Nguyễn Văn A thì thời hạn xóa án tích được tính từ thời điểm chấp hành xong bản án mới và các hình phạt bổ sung của bản án cũ và bản án mới.

Điều 73 Bộ luật hình sự 2015 (Nay chưa có hiệu lực thi hành) quy định Cách tính thời hạn để xóa án tích như sau:

“1. Thời hạn để xóa án tích quy định tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ luật này căn cứ vào hình phạt chính đã tuyên.

2. Người bị kết án chưa được xóa án tích mà thực hiện hành vi phạm tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn để xóa án tích cũ được tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo của bản án mới hoặc từ ngày bản án mới hết thời hiệu thi hành.

3. Người bị kết án trong trường hợp phạm nhiều tội mà có tội thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích, có tội thuộc trường hợp xóa án tích theo quyết định của Tòa án thì căn cứ vào thời hạn quy định tại Điều 71 của Bộ luật này Tòa án quyết định việc xóa án tích đối với người đó.

4. Người được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại cũng được coi như đã chấp hành xong hình phạt.”

Theo quy định Bộ luật hình sự 2015 thì người bị kết án chưa được xóa án tích mà phạm tội mới bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn tính xóa án tích bản án cũ được tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính của bản án mới hoặc từ ngày bản án mới hết thời hiệu thi hành. Như vậy, Bộ luật hình sự 2015 chỉ yêu cầu chấp hành xong hình phạt chính, không yêu cầu chấp hành xong hình phạt bổ sung và các hình phạt khác.

Khoản 4 Điều 1 Nghị quyết số 144/2016/QH13 quy định:

“4. Kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2016:

a) Thực hiện các quy định có lợi cho người phạm tội tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 và điểm b khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 109/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật Hình sự; tiếp tục áp dụng khoản 2 Điều 1 và các quy định khác có lợi cho người phạm tội tại Nghị quyết số 109/2015/QH13;

b) Áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 để thi hành các quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 và Nghị quyết số 109/2015/QH13 tại điểm a khoản này;

c) Các quy định khác tại Nghị quyết số 109/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật Hình sự và tại Nghị quyết số 110/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật tố tụnghình sự có ghi thời điểm “ngày 01 tháng 7 năm 2016” được lùi đến thời điểm “ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 có hiệu lực thi hành”.

Theo quy định của Nghị quyết số 144/2016/QH13 thì Bộ luật Hình sự 2015 hiện nay vẫn đang bị lùi hiệu lực thi hành tuy nhiên nếu Bộ luật Hình sự 2015 có những quy định có lợi cho người phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 7 năm 2016 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích thì được áp dụng.

Đối với trường hợp của Nguyễn Văn A; vào ngày 15/10/2010, Nguyễn Văn A bị Tòa án nhân dân huyện H tuyên phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, buộc phải bồi thường 10.500.000 đồng cho người bị hại. Đến ngày 12/12/2013, Nguyễn Văn A bị Tòa án nhân dân huyện K áp dụng tình tiết tái phạm tuyên phạt 6 tháng 15 ngày tù (thời hạn tù bằng thời hạn tạm giam) về tội “vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng“, A đã nộp án phí hình sự sơ thẩm vào ngày 10/6/2014. Đến ngày 16/9/2016, A lại phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, đã bị khởi tố theo Khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự 1999. Như vậy, đối với thời hạn xóa án tích tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng được tính từ khi chấp hành xong bản án, tức có nghĩa là trong thời hạn 02 năm kể từ thời điểm chấp hành xong bản án là 6 tháng 15 ngày tù, A không phạm tội mới thì sẽ được xóa án tích theo nguyên tắc có lợi được quy định tại Nghị quyết số 144/2016/QH13.

Xem thêm:

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  1. Bài viết trong lĩnh vực pháp luật hình sự được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198, E-mail: info@everest.net.vn.

TRẢ LỜI

Vui lòng nhập bình luận của bạn!
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây