Phân tích khái niệm trách nhiệm hình sự của người phạm tội

0
18

Phân tích khái niệm trách nhiệm hình sự của người phạm tội

Một trong những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có đầy đủ dấu hiệu của tội phạm được quy định trong BLHS thì phải chịu TNHS. Vậy thế nào là trách nhiệm hình sự của người phạm tội?

Chiến thuật khám xét người

Khái niệm trách nhiệm hình sự của người phạm tội

Một tổ chức, cá nhân khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có đầy đủ dấu hiệu của tội phạm được quy định trong BLHS thì phải chịu trách nhiệm hình sự.

Thuật ngữ “trách nhiệm” ở đây không dùng để chỉ nghĩa vụ mà công dân phải có với Nhà nước và xã hội mà nó được dùng để chỉ hậu quả pháp lí bất lợi mà một người phải gánh chịu trước Nhà nước và xã hội vì họ đã sự cấm hoặc không thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật hình sự bắt buộc phải thực hiện, gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Nhà nước bảo vệ những quan hệ xã hội này bằng việc quy định những chế tài (hình phạt, biện pháp tư pháp) trong BLHS để áp dụng đối với người phạm tội, tước bỏ hoặc hạn chế những quyền và lợi ích thiết thân của họ đồng thời buộc họ phải chấp hành những chế tài ấy. Hậu quả pháp lí  đã nêu chính là trách nhiệm hình sự. Trách nhiệm hình sự cũng chính là dạng trách nhiệm pháp lí bao gồm “nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu TNHS, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế”

Vậy trách nhiệm hình sự của người phạm tội được hiểu là “Trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lí bất lợi về hành vi phạm tội của mình”.

Đặc điểm của trách nhiệm hình sự của người phạm tội

Từ khái niệm trách nhiệm hình sự, có thể rút ra một số đặc điểm của trách nhiệm hình sự như sau:

  • TNHS là hậu quả pháp lí của việc thực hiện hành vi phạm tội. Hậu quả này chỉ phát sinh khi có người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm hoặc không thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật hình sự bắt buộc phải thực hiện.
  • TNHS chỉ có thể được xác định bằng trình tự đặc biệt theo quy định của pháp luật mà các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ phải thực hiện. .
  • TNHS được biểu hiện cụ thể ở việc người phạm tội phải chịu biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt – biện pháp tước bỏ hoặc hạn chế ở họ một số quyền hoặc lợi ích hợp pháp.
  • TNHS mà người phạm tội phải gánh chịu là trách nhiệm đối với Nhà nước chứ không phải đối với người, hay tổ chức mà quyền hoặc lợi ích hợp pháp của họ bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại.
  • TNHS phải được phản ánh trong bản án hay quyết định có hiệu lực pháp luật của toà án

Khái niệm luật hình sự

Xem thêmCác nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự

Xem thêm: Ngành luật hình sự 

Cơ sở của trách nhiệm hình sự của người phạm tội

Vấn đề cơ sở triết học của TNHS đã giải quyết câu hỏi “Trên cơ sở nào mà xã hội có thể buộc con người phải chịu TNHS về hành vi của họ nhưng muốn biết căn cứ vào đâu mà Nhà nước có thể buộc con người phải chịu TNHS về hành vi phạm tội của mình thì phải nghiên cứu quy định của pháp luật, tức là cơ sở pháp lí của TNHS.

Theo khoản 1 Điều 2 BLHS năm 2015 thì “chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu TNHS”. Để kết luận hành vi đã được thực hiện của người nào đó có phải là tội phạm không và tội đó là tội gì, hình phạt áp dụng đối với họ ra sao, cần phải xác định hành vi đó đã thỏa mãn những dấu hiệu của CTTP cụ thể chưa? Nếu thỏa mãn tức là người ấy đã thực hiện tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS và người thực hiện hành vi này phải chịu TNHS. Như vậy, CTTP là cơ sở pháp lí của TNHS, là điều kiện cần và đủ của TNHS.

Việc xác định một cách thống nhất CTTP là cơ sở của TNHS là nội dung quan trọng để thực hiện nguyên tắc pháp chế XHCN. Việc tuyên bố người nào đó là phạm tội và buộc họ phải chịu TNHS chỉ có thể dựa trên cơ sở pháp lí là CTTP mà không thể dựa vào cơ sở nào khác. Nếu xác định hành vi của một người không có hoặc có nhưng không đầy đủ những dấu hiệu của bất kì CTTP cụ thể nào được quy định trong BLHS thì hành vi đó không thể bị coi là tội phạm và người thực hiện hành vi này không thể bị buộc phải chịu TNHS.

Tội phạm là sự kiện pháp lí làm phát sinh quan hệ pháp luật hình sự. Chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự là Nhà nước và người phạm tội với những quyền và nghĩa vụ khác nhau. Nhà nước có quyền áp dụng chế tài hình sự đối với người phạm tội và họ luôn có nguy cơ có thể phải chịu biện pháp cưỡng chê nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt.

Quan hệ pháp luật hình sự chỉ được thực hiện khi các cơ quan tiến hành tố tụng (điều tra, truy tố, xét xử) khẳng định bị cáo phạm một hoặc nhiều tội được quy định trong BLHS trong các văn bản của mình. Nhưng chỉ có bản án hay quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật mới xác định một cách chính thức cơ sở của TNHS và cụ thể hoá TNHS bằng loại hình phạt cũng như mức hình phạt cụ thể để áp dụng đối với người phạm tội.

Khi tội phạm xảy ra nhưng chưa bị phát hiện hoặc đã bị phát hiện nhưng chưa tìm ra được người phạm tội, quan hệ pháp luật hình sự vẫn phát sinh và tồn tại. Tuy nhiên, quan hệ này sẽ không được thực hiện chừng nào cơ quan điều tra chưa phát hiện được tội phạm và người phạm tội.

Nguồn: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung – Đại học Luật Hà Nội!

TRẢ LỜI

Vui lòng nhập bình luận của bạn!
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây