Đặc điểm của các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm

0
20

1-   Đặc điểm luật định

Tội phạm theo luật hình sự Việt Nam phải được quy định trong luật hình sự. Nhà nước quy định tội phạm trong luật hình sự bằng cách mô tả những dấu hiệu của tội phạm và quy định những dấu hiệu đó trong luật. Do vậy, tất cả những dấu hiệu trong CTTP đều là những dấu hiệu đã được quy định trong luật hình sự về nguyên tắc, các dấu hiệu của CTTP của tất cả các tội phạm đều phải được quy định trong BLHS. Tuy nhiên, trong các BLHS của Việt Nam vẫn có một số tội phạm không được mô tả hay nói cách khác là không có CTTP như tội cướp giật tài sản (Điều 171), tội trộm cắp tài sản (Điều 173). Phần quy định của các điều luật này chỉ nhắc lại tội danh. Hiện tượng này thường được giải thích là do các dấu hiệu của các tội này đã được thực tiễn xét xử thừa nhận là rõ ràng

Cơ quan giải thích cũng như cơ quan áp dụng luật không được phép thêm hoặc bớt dấu hiệu nào trong CTTP mà chỉ có thể đặt tên cho từng tội phạm và thường được gọi là tội danh. Các BLHS Việt Nam đều mô tả tội phạm và đặt tên cho từng tội được phép giải thích nội dung những dấu hiệu đã được quy định.

Xem thêm: Phân tích khái niệm và các loại đồng phạm

Xem thêm: Ngành luật hình sự 

Việc bớt hoặc thêm dấu hiệu nào đó trong CTTP đều có thể dẫn đến tình trạng truy cứu TNHS không đúng hoặc bỏ lọt tội phạm không truy cứu TNHS.

2-  Đặc điểm có tính đặc trưng

Với ý nghĩa là khái niệm pháp lý của tội phạm cụ thể, CTTP vừa đòi hỏi có tính khái quát vừa đòi hỏi phải rõ ràng, phản ánh được những nội dung biểu hiện của bốn yếu tố có tính chất đặc trưng của tội phạm đó và đủ để phân biệt tội phạm này với những tội khác cũng như với trường hợp chưa phải là tội phạm. Yêu cầu phân biệt với trường hợp chưa phải là tội phạm không được đặt ra đối với những tội phạm không có ranh giới với vi phạm như tội giết người, tội hiếp dâm V.V.. Dựa vào CTTP, người áp dụng luật có thể nhận thức được đặc điểm cấu trúc của từng tội phạm cụ thể mà không có sự hiểu rộng ra hoặc hẹp đi và cũng không có sự nhầm lẫn giữa tội phạm này với tội phạm khác cũng như với trường hợp chưa phải là tội phạm. Việc lựa chọn những dấu hiệu cụ thể để đưa vào CTTP phải đảm bảo được yêu cầu đã được đặt ra này.

Bảo vệ người làm chứng

Tính đặc trưng của các dấu hiệu trong CTTP có nghĩa, trong sự kết hợp với nhau, những dấu hiệu này vừa phản ánh đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được phản ánh và vừa đủ cần thiết cho phép phân biệt tội phạm này với các tội phạm khác cũng như với trường hợp chưa phải là tội phạm. Các dấu hiệu này trong sự kết hợp với nhau hoàn toàn có tính riêng biệt, đặc trưng cho từng tội phạm. Như vậy, không thể có 2 CTTP giống nhau. Nhưng như thế không có được phép giải thích nội dung những dấu hiệu đã được quy định. Dấu hiệu cụ thể, nếu xét độc lập với những dấu hiệu khác, có thể có ở nhiều CTTP. Ví dụ: Dấu hiệu “dùng vũ lực” có thể thấy ở nhiều CTTP như CTTP tội cướp tài sản, CTTP tội hiếp dâm. Nhưng trong sự kết hợp với những dấu hiệu khác của CTTP, những dấu hiệu đó vẫn có tính riêng biệt. Dùng vũ lực trong tội cướp tài sản khác với dùng vũ lực trong tội hiếp dâm. Dùng vũ lực trong tội cướp tài sản là nhằm chiếm đoạt tài sản còn dùng vũ lực trong tội hiếp dâm là để thực hiện hành vi giao cấu.

3-   Đặc điểm có tính bắt buộc

Tất cả các dấu hiệu của CTTP đều có tính bắt buộc khi xác định tội phạm. Neu một trong những dấu hiệu của CTTP không thoả mãn thì hành vi không cấu thành tội phạm và CTTP đó phản ánh. Tất cả những dấu hiệu của CTTP đều là điều kiện cần để xác định tội phạm. Người áp dụng luật hình sự không thể bỏ qua bất cứ dấu hiệu nào của CTTP khi xác định tội phạm.

Nguồn: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung – Đại học luật Hà Nội

TRẢ LỜI

Vui lòng nhập bình luận của bạn!
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây