Khái niệm và cơ sở phát sinh phòng vệ chính đáng

0
34

Khái niệm và cơ sở phát sinh phòng vệ chính đáng

Khi gặp phải nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của bản thân thì pháp luật cho phép người dân thực hiện hành vi phòng vệ chính đáng. Vậy thế nào là hành vi phòng vệ chính đáng? Bài viết sau sẽ cung cấp cho bạn đọc thông tin về khái niệm và cơ sở phát sinh phòng vệ chính đáng.

Khái niệm phòng vệ chính đáng

“Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm” (Điều 22 Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015, sửa đổ, bổ sung 2017).

Luật hình sự Việt Nam khẳng định hành động trong phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm vì hành động này phù hợp với lợi ích của xã hội, hỗ trợ Nhà nước trong việc duy trì trật tự xã hội; chống lại hành vi xâm phạm các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Phòng vệ chính đáng là quyền của mỗi cá nhân nhưng không phải là nghĩa vụ pháp lí. Họ có thể không sử dụng quyền đó vì những lí do khác nhau nhưng về mặt đạo đức, đòi hỏi mọi người phải có trách nhiệm đối với lợi ích chung của xã hội, chống trả hành vi xâm phạm các lợi ích đó. Đối với những người có chức vụ, có trách nhiệm bảo vệ lợi ích của Nhà nước hoặc của nhân dân thì đây là nghĩa vụ pháp lí.

Xem thêm: Điều kiện của phòng vệ chính đáng theo quy định của pháp luật

Xem thêm: Ngành luật hình sự 

Cơ sở làm phát sinh quyền phòng vệ chính đáng

Theo quy định của Điều 22 BLHS, quyền phòng vệ phát sinh khi “đang có hành vi xâm phạm” quyền hoặc lợi ích chính đáng của cá nhân hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức. Nếu coi hành vi xâm phạm là sự tấn công của con người thì cơ sở làm phát sinh quyền phòng vệ là sự tấn công của con người đang hiện hữu.

Như vậy, chỉ có thể nói đến phòng vệ chính đáng khi có hành vi của con người đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội, có thể cho người dân, cho Nhà nước, cơ quan hoặc tổ chức. Thiệt hại đe dọa gây ra có thể cho quyền nhân thân (tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm…) hoặc cho quyền sở hữu. Hành vi xâm phạm có thể là hành động (như hành động cướp, hành động hiếp dâm…) nhưng cũng có thể là không hành động (như bác sĩ không cấp cứu người bị tai nạn mà không có lí do chính đáng).

Hành vi xâm phạm có thể thỏa mãn các dấu hiệu của một CTTP nhưng không bắt buộc phải như vậy. Có hành vi không cấu thành tội phạm nhưng vẫn đòi hỏi phải được ngăn chặn kịp thời để tránh thiệt hại như hành vi đâm, chém người khác của người không có năng lực TNHS do mắc bệnh tâm thần. Hơn nữa, khi đứng trước hành vi xâm phạm, không phải trong trường hợp nào cũng khẳng định được ngay đó là tội phạm hay không phải là tội phạm.

Hành vi xâm phạm là cơ sở của quyền phòng vệ chính đáng khi còn đang xảy ra hoặc đe dọa sẽ xảy ra ngay tức khắc. “Đang xảy ra” hoặc “đe dọa sẽ xảy ra ngay tức khắc” là hai khả năng khác nhau của trường hợp mà BLHS gọi là “đang” có hành vi xâm phạm.

– Về khả năng thứ nhất: Điều luật đòi hỏi hành vi xâm phạm phải đang xảy ra vì khi hành vi xâm phạm đã thực sự chấm dứt thì cũng có nghĩa không đòi hỏi phải có hành vi ngăn chặn. Sự phòng vệ lúc này không phù hợp với mục đích của phòng vệ chính đáng.

Trường hợp phòng vệ khi hành vi xâm phạm đã thực sự chấm dứt được luật hình sự gọi là phòng vệ “quá muộn”. TNHS trong trường hợp này được giải quyết như trường hợp bình thường nếu đã cố ý phòng vệ quá muộn. Đối với trường hợp phòng vệ “quá muộn” do nhầm tưởng thì TNHS được giải quyết như các trường hợp sai lầm khác.

Hành vi phòng vệ xảy ra sau khi sự tấn công đã kết thúc vẫn có thể được coi là phòng vệ chính đáng nếu sự phòng vệ đi liền ngay sau sự tấn công để khắc phục thiệt hại do hành vi xâm phạm đã gây ra. Ví dụ: người bị cướp giật đã đuổi theo và dùng vũ lực chống lại người cướp giật để lấy lại tài sản vừa bị cướp giật.

– Về khả năng thứ hai: Khi hành vi xâm phạm chưa xảy ra nhưng cổ biểu hiện hành vi này sẽ xảy ra ngay tức khắc thì cũng cho phép phòng vệ. Sự cho phép này là cần thiết để tạo điều kiện chủ động cho người phòng vệ ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả hành vi xâm phạm. Nếu chưa có biểu hiện hành vi xâm phạm sẽ xảy ra ngay tức khắc mà đã phòng vệ thì bị coi là phòng vệ “quá sớm” và TNHS trong trường hợp này được giải quyết như trường hợp phòng vệ “quá muộn”.

Nguồn: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung – Đại học Luật Hà Nội!

TRẢ LỜI

Vui lòng nhập bình luận của bạn!
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây