0
23

Miễn chấp hành hình phạt theo Luật hình sự Việt Nam.

Chế định miễn chấp hành hình phạt theo Luật Hình sự Việt Nam thể hiện chính sách nhân đạo đối với người bị kết án có hoàn cảnh đặc biệt và khuyến khích người bị kết án cố gắng lập công chuộc tội để được hưởng sự khoan hồng của Nhà nước. Theo đó, miễn chấp hành hình phạt là không buộc người bị kết án phải chấp hành toàn bộ hoặc phần còn lại của hình phạt đã tuyên. Miễn chấp hành hình phạt được quy định cụ thể tại Điều 62 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

1 – Miễn chấp hành hình phạt khi được đặc xá hoặc đại xá.

Căn cứ khoản 1 Điều 62 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS) quy định:

“Người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt khi được đặc xá hoặc đại xá.”

Đặc xá là biện pháp khoan hồng của Nhà nước, có nội dung là miễn chấp hành toàn bộ hoặc phần còn lại của hình phạt tù cho đích danh một phạm nhân nào đó hoặc cho những phạm nhân đã thoả mãn những điều kiện nhất định nào đó. Đặc xá thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước và lệnh này thường được ban hành nhân dịp kỉ niệm những ngày lễ lớn hàng năm.

Đại xá là biện pháp khoan hồng của Nhà nước có nội dung tha tội, thường là hoàn toàn và triệt để cho hàng loạt những người phạm những tội nhất định nào đó.

Từ ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà cho đến nay, Nhà nước ta mới quyết định hai lần đại xá vào năm 1945 (theo sắc lệnh số 52-SL ngày 20/10/1945 xá miễn cho một số tội phạm trước ngày 19/8/1945) và năm 1954 (theo Thông tư của Thủ tướng Chính phủ sổ 413-TTg ngày 19/11/1954 về đại xá nhân dịp giải phóng Thủ đô). Hiện nay, theo Hiến pháp, quyết định đại xá thuộc thẩm quyền của Quốc hội.

Khái niệm, mục đích và nguyên tắc của khám xét

Tuỳ ở giai đoạn nào của quá trình thi hành án mà người bị kết án được đặc xá hoặc đại xá được miễn chấp hành toàn bộ hay phần hình phạt còn lại.

2 – Miễn chấp hành toàn bộ hình phạt đối với người bị phạt cải tạo không giam giữ và người bị phạt tù có thời hạn.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 62 BLHS, trường hợp người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn đến 03 năm chưa chấp hành hình phạt thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Toà án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

– Sau khi bị kết án đã lập công;

– Mắc bệnh hiểm nghèo;

– Chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 62 BLHS, trường hợp người bị kết án phạt tù có thời hạn trên 03 năm, chưa chấp hành hình phạt nếu đã lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và người đó không còn nguy hiểm cho xã hội thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Toà án có thể quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt.

Lập công lớn là trường họp người chấp hành án đã có hành động giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện, truy bắt, điều tra tội phạm; cứu được người khác trong tình thế hiểm nghèo hoặc cứu được tài sản (có giá trị từ ba mươi triệu đồng trở lên) của Nhà nước, tập thể, của công dân trong thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh, tai nạn; có những phát minh, sáng chế hoặc sáng kiến có giá trị được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng hoặc xác nhận. Đặc điểm này chứng tỏ người bị kết án đã trở nên có ích cho xã hội nên dù không buộc họ phải chấp hành hình phạt thì cũng không có nguy cơ tái phạm.

Người mắc bệnh hiểm nghèo là đang bị một trong những bệnh nguy hiểm đến tính mạng, khó có phương thức chữa trị như: ung thư giai đoạn cuối, xơ gan cổ chướng, lao nặng độ 4 kháng thuốc, bại liệt, suy tim độ 3, suy thận độ 4 trở lên; HIV. Viện trưởng Viện kiểm sát, Toà án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt, nếu thuộc giai đoạn AIDS đang có các nhiễm trùng cơ hội không có khả năng chăm sóc bản thân và có nguy cơ tử vong cao.

Người bị kết án không còn nguy hiểm cho xã hội được hiểu là người bị kết án đã hoàn lương, chấp hành đúng quy định pháp luật, chăm chỉ lao động, tích cực tham gia các hoạt động xã hội cũng như các phong trào địa phương, tự giác thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo quyết định của Toà án.

Xem thêm: Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm đối với pháp nhân thương mại bị xử lý như thế nào?

Xem thêm: Ngành luật hình sự

Thẩm quyền xét và quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt thuộc về Toà án khi có đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát.

3 –  Miễn chấp hành phần hình phạt còn lại trong trường hợp đã được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt.

Toà án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại trong trường hợp thoả mãn các điều kiện sau:

–  Người bị kết án phạt tù đến 03 năm;

–  Được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù;

–  Trong thời gian được tạm đình chỉ đã lập công hoặc chấp hành tốt pháp luật, hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội.

Đây là trường hợp người phải chấp hành án có nhiều nỗ lực, cố gắng và đạt nhiều thành tích trong học tập, công tác, chiến đấu được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết giai đoạn AIDS đang có các nhiễm trùng cơ hội không có khả năng chăm sóc bản thân và có nguy cơ tử vong cao.

Người bị kết án không còn nguy hiểm cho xã hội được hiểu là người bị kết án đã hoàn lương, chấp hành đúng quy định pháp luật, chăm chỉ lao động, tích cực tham gia các hoạt động xã hội cũng như các phong trào địa phương, tự giác thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo quyết định của Toà án.

Thẩm quyền xét và quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt thuộc về Toà án khi có đề nghị của viện trưởng viện kiểm sát.

4 – Miễn chấp hành hình phạt tiền còn lại.

Theo quy định tại khoản 5 Điều 62 BLHS thì người bị kết án phạt tiền cũng có thể được Toà án miễn chấp hành phần tiền phạt còn lại khi thuộc một trong hai trường hợp sau:

–  Đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt và không thể tiếp tục chấp hành được phần hình phạt còn lại do lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài vì thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau;

– Đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt và đã lập công lớn.

Cả hai trường hợp trên đều đòi hỏi phải có đề nghị của viện trưởng viện kiểm sát về việc miễn chấp hành phần hình phạt tiền còn lại.

5 – Miễn chấp hành hình phạt bổ sung cấm cư trú hoặc quản chế.

Theo quy định tại khoản 6 Điều 62 BLHS người bị phạt cấm cư trú hoặc quản chế, nếu thoả mãn các điều kiện sau thì có thể được Toà án ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại:

–  Đã chấp hành được 1/2 thời hạn hình phạt;

–  Đã cải tạo tốt và

–  Có đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện nơi người đó chấp hành hình phạt.

Trên đây là một số quy định của Luật Hình sự Việt Nam về miễn chấp hành hình phạt.

Nguồn: Giáo trình Luật hình sự ( Phần chung) Đại học Luật Hà Nội. 

TRẢ LỜI

Vui lòng nhập bình luận của bạn!
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây