Chủ thể, khách thể của quan hệ pháp luật hành chính

0
40

Chủ thể, khách thể của quan hệ pháp luật hành chính

Có thể nói, quan hệ pháp luật hành chính là một lĩnh vực đặc thù thể hiện qua việc có ít nhất một bên tham gia quan hệ là bên có thẩm quyền, là chủ thể thực hiện chức năng chấp hành và điều hành của nhà nước. Vậy, chủ thể và khách thể trong quan hệ pháp luật hành chính có những nét đặc trưng nào? 

Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính

Chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính là các cơ quan, tổ chức, cá nhân có năng lực chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính, mang quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật hành chính. Như vậy, điều kiện để các cơ quan, tổ chức, cá nhân trở thành chủ thể của quan hệ này là các cơ quan, tổ chức, cá nhân đó phải có năng lực chủ thể phù hợp với quan hệ pháp luật hành chính mà họ tham gia.

Nhìn chung, năng lực chủ thể của các cơ quan, tổ chức, cá nhân được xem xét ở những khía cạnh chủ yếu sau:

– Năng lực chủ thể của cơ quan nhà nước phát sinh khi cơ quan đó được thành lập và chấm dứt khi cơ quan đó bị giải thể. Năng lực này được pháp luật hành chính quy định phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đó trong quản lý hành chính nhà nước. Ví dụ: Do có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, nên các cơ quan thanh tra chuyên ngành mới có khả năng tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính về xử phạt vi phạm hành chính đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính; mặt khác, vì Thanh tra Chính phủ là cơ quan của Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra nên Thanh tra Chính phủ có khả năng tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính với Chính phủ trong việc soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ về công tác thanh tra khi được Thủ tướng Chính phủ phân công chủ trì soạn thảo các văn bản đó.

Năng lực chủ thể của cán bộ, công chức phát sinh khi cá nhân được Nhà nước giao đảm nhiệm một công vụ, chức vụ nhất định trong bộ máy nhà nước và chấm dứt khi không còn đảm nhiệm công vụ, chức vụ đó. Năng lực này được pháp luật hành chính quy định phù hợp với năng lực chủ thể của cơ quan và vị trí công tác của cán bộ, công chức đó. Ví dụ: uỷ ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung nên có thẩm quyền xử phạt các vi phạm hành chính phát sinh trên các lĩnh vực của quản lý hành chính nhà nước ở địa phương. Tuy nhiên, không phải là bất kì ai trong uỷ ban nhân dân đều có khả năng tham gia vào quan hệ này với tư cách là chủ thể xử phạt vi phạm hành chính. Khả năng này được pháp luật quy định chỉ thuộc về chủ tịch hoặc phó chủ tịch được chủ tịch uỷ ban nhân dân giao quyền.(1)

– Năng lực chủ thể của tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế, đơn vị vũ trang, đơn vị sự nghiệp,… (gọi chung là tổ chức) phát sinh khi tổ chức đó được thành lập và chấm dứt khi tổ chức đó bị giải thể.

Do không có chức năng quản lý nhà nước nên các tổ chức nêu trên thường tham gia vào các quan hệ pháp luật hành chính với tư cách là chủ thể thường. Cá biệt trong một số trường hợp, khi được Nhà nước trao quyền quản lý hành chính nhà nước đối với một số công việc cụ thể, các tổ chức này có thể tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính với tư cách là chủ thể đặc biệt.

Năng lực chủ thể của cá nhân được biểu hiện trong tổng thể năng lực pháp luật hành chính và năng lực hành vi hành chính.

Khác với cơ quan nhà nước, tổ chức và cán bộ, công chức, năng lực chủ thể của cá nhân được xem xét cụ thể trên hai phương diện: Năng lực pháp luật hành chính và năng lực hành vi hành chính. Sở dĩ có điểm khác biệt này là khi xem xét năng lực chủ thể của cơ quan nhà nước, tổ chức và cán bộ, công chức chúng ta không cần xem xét tới phương diện khả năng thực tế của các cơ quan, tổ chức và cán bộ, công chức đó nữa (vì khả năng này đã được Nhà nước thừa nhận khi bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm, tuyển dụng cán bộ, công chức hoặc khi thành lập cơ quan, tổ chức đó). 

Năng lực pháp luật hành chính của cá nhân là khả năng của cá nhân được hưởng các quyền và phải thực hiện các nghĩa vụ pháp lý hành chính nhất định do Nhà nước quy định. Năng lực pháp luật hành chính của cá nhân là thuộc tính pháp lí hành chính phản ánh địa vị pháp lý hành chính của các cá nhân.

Do năng lực pháp luật hành chính của cá nhân hoàn toàn tuỳ thuộc vào những quy định cụ thể của pháp luật nên năng lực này sẽ thay đổi khi pháp luật thay đổi và có thể bị Nhà nước hạn chế trong một số trường hợp. Ví dụ, người phạm tội có thể bị tòa án áp dụng hình phạt bổ sung: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.(1)

Năng lực hành vi hành chính của cá nhân là khả năng của cá nhân được Nhà nước thừa nhận mà với khả năng đó họ có thể tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý hành chính đồng thời phải gánh chịu những hậu quả pháp lý nhất định do những hành vi của mình mang lại.

Tuỳ thuộc vào tính chất, nội dung của từng loại quan hệ pháp luật hành chính cụ thể mà Nhà nước đòi hỏi cá nhân phải đáp ứng những điều kiện nhất định về độ tuổi, tình trạng sức khỏe, trình độ đào tạo, khả năng tài chính… khi tham gia vào quan hệ đó. Việc quy định các điều kiện trên là cần thiết để bảo đảm hiệu lực của quản lý hành chính nhà nước và đề cao trách nhiệm của các cá nhân trong quan hệ này.

Tuỳ thuộc vào tính chất và nội dung của các loại quan hệ pháp luật hành chính cụ thể mà pháp luật có thể quy định độ tuổi tối thiểu hay tối đa để xác định năng lực hành vi hành chính của cá nhân. Ví dụ-. Cá nhân phải từ đủ 14 tuổi trở lên mới có thể bị xử phạt vi phạm hành chính; công dân từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi mới có thể bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.

Ngoài độ tuổi, tình trạng sức khỏe là điều kiện phổ biến để xác định năng lực hành vi hành chính của cá nhân theo nguyên tắc: Người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì không có năng lực hành vi hành chính đối với mọi loại quan hệ pháp luật hành chính.

Trình độ đào tạo, khả năng tài chính cũng là điều kiện xác định năng lực hành vi hành chính của cá nhân đối với một số loại quan hệ pháp luật hành chính nhất định. Ví dụ: Công dân Việt Nam phải có trình độ cử nhân luật trở lên mới có khả năng được bổ nhiệm làm thẩm phán; cá nhân phải có vốn pháp định không được thấp hơn 20 tỷ đồng thì mới được thành lập doanh nghiệp kinh doanh bất động sản.

Như vậy, đối với cá nhân thì thời điểm phát sinh năng lực pháp luật hành chính và năng lực hành vi hành chính không giống nhau. Mặt khác, năng lực hành vi hành chính của cá nhân không chỉ phụ thuộc vào khả năng thực tế của cá nhân, mà nhiều khi còn phụ thuộc vào cách thức Nhà nước thừa nhận khả năng thực tế đó. Nhà nước có thể mặc nhiên thừa nhận năng lực hành vi hành chính của cá nhân khi họ có đủ những điều kiện nhất định hoặc thông qua những hành vi pháp lý cụ thể để thừa nhận năng lực đó. Tuy nhiên, năng lực hành vi hành chính của các cá nhân này trong việc điều khiển các loại xe nêu trên không mặc nhiên phát sinh khi họ đủ 18 tuổi mà năng lực này chỉ được Nhà nước thừa nhận khi họ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép lái xe phù hợp với các loại xe đó.

Xem thêm: quan hệ pháp luật hành chính

Xem thêm:  Phân biệt quản lý nhà nước với quản lý hành chính nhà nước

Khách thể của quan hệ pháp luật hành chính

Trong quản lý hành chính nhà nước, các lợi ích trực tiếp thúc đẩy cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính rất đa dạng. Chúng có thể là lợi ích của Nhà nước hay quyền lợi chính đáng của các cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, các lợi ích đó chỉ được bảo đảm nếu chúng phù hợp với các trật tự quản lý hành chính nhà nước.

Pháp luật hành chính xác lập và bảo vệ các trật tự quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội và định hướng quản lý hành chính nhà nước trong từng giai đoạn phát triển của đất nước trên cơ sở bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, quyền lợi chính đáng của các cá nhân, tổ chức.

Từ những nhận định trên có thể thấy cho dù những lợi ích trực tiếp thúc đẩy các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính có đa dạng đến đâu thì khách thể chung của các quan hệ pháp luật hành chính vẫn là các trật tự quản lý hành chính nhà nước.

Tổng hợp từ giáo trình Luật hành chính – Đại học Luật Hà Nội

TRẢ LỜI

Vui lòng nhập bình luận của bạn!
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây