Contents
1. Khái niệm quản lý hành chính về tôn giáo
Trong Từ điển tiếng Việt, tôn giáo được định nghĩa như sau
- Hình thái ý thức xã hội gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng bái những lực lượng siêu tự nhiên, cho rằng có những lực lượng siêu tự nhiên quyết định số phận con người, con người phải phục tùng và tôn thời.
- Hệ thống những quan niệm tín ngưỡng, sùng bái một hay những vị thần linh nào đó và những hình thức lễ nghi thể hiện sự sùng bái ấy.
Tín ngưỡng được định nghĩa là “tin theo một tôn giáo nào đó”.
Về bản chất, tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, phản ánh hư ảo thực tại xã hội bằng những lực lượng siêu tự nhiên, về hình thức biểu hiện, tôn giáo bao gồm hệ thống các quan niệm tín ngưỡng (giáo lý), các quy định về hình thức lễ nghi (giáo luật) và những cơ sở vật chất để thực hiện các nghi lễ tôn giáo.
Từ góc độ quản lý nhà nước thì khái niệm tôn giáo có nội hàm rộng hơn bởi ngoài hệ thống những quan niệm tín ngưỡng, các quy định về hình thức lễ nghi, những cơ sở vật chất để thực hiện các nghi lễ tôn giáo đã được đề cập trên đây, khái niệm tôn giáo còn bao hàm cả tổ chức và hoạt động tôn giáo.
Theo quy định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 thì tổ chức tôn giáo là tập hợp những người cùng tỉnh theo một hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức theo một cơ cấu nhất định được Nhà nước công nhận còn hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi, quản lý tổ chức tôn giáo.
Tôn giáo và tín ngưỡng có mối Hên hệ mật thiết với nhau. Tuy nhiên, chúng cũng có điểm khác nhau bởi tín ngưỡng là khái niệm thuộc lĩnh vực ý thức, tình cảm, tư tưởng còn tôn giáo là khái niệm rộng hơn nhiều, bao gồm cả hoạt động và tổ chức.
2. Đặc điểm chung của các tôn giáo
Tôn giáo và tín ngưỡng có mối Hên hệ mật thiết với nhau. Tuy nhiên, chúng cũng có điểm khác nhau bởi tín ngưỡng là khái niệm thuộc lĩnh vực ý thức, tình cảm, tư tưởng còn tôn giáo là khái niệm rộng hơn nhiều, bao gồm cả hoạt động và tổ chức.
Mỗi tôn giáo có đặc điểm của riêng mình nhưng các tôn giáo đều có những tính chất chung sau đây:
- Tính chất lịch sử: Tôn giáo xuất hiện khi khả năng tư duy trừu tượng của con người đạt tới một mức độ nhất định. Qua mỗi giai đoạn phát triển của xã hội loài người, tôn giáo có sự thay đổi cho phù hợp với kết cấu chính trị và xã hội của giai đoạn đó. Đến giai đoạn nào đó, khi những nguồn gốc sản sinh ra tôn giáo không còn tồn tại nữa, khi khoa học phát triển giúp con người nhận thức được bản chất của các hiện tượng tự nhiên và xã hội một cách thấu đáo, tôn giáo sẽ dần dần mất đi vị trí của nó trong đời sống xã hội và trong nhận thức, niềm tin của con người.
- Tính chất quần chúng: Tính chất quần chúng của tôn giáo thể hiện ở số lượng tín đồ các tôn giáo chiếm tỉ lệ cao trong dân số thế giới. Nguyên nhân làm cho tôn giáo có tính quần chúng là cho đến nay, sự phát triển của khoa học, sản xuất và xã hội chưa loại bỏ được những nguồn gốc nảy sinh tôn giáo. Mặt khác, tôn giáo cũng đang đáp ứng phần nào nhu cầu tinh thần của quần chúng, phản ánh khát vọng của những người bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái. Vì vậy, còn nhiều người trong các tầng lớp xã hội khác nhau tin theo.
- Tính chất chính trị: Tính chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp, có sự khác nhau về lợi ích và các giai cấp bóc lột thống trị lợi dụng tôn giáo phục vụ cho mục đích của mình. Những cuộc chiến tranh tôn giáo trong lịch sử và hiện tại đều xuất phát từ những ý đồ của những thế lực khác nhau trong xã hội, lợi dụng tôn giáo để thực hiện mục tiêu chính trị của mình. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tôn giáo độc lập với chính trị. Nhà nước quy định và bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo bao gồm quyền tự do theo hoặc không theo một tín ngưỡng, tôn giáo nào, bảo đảm cho sinh hoạt tôn giáo mang tính chất tôn giáo thuần tuý, không gắn với chính trị.
- Tính chất duy tâm: Tôn giáo phản ánh hư ảo thế giới thực tại bằng các lực lượng siêu nhiên vào đầu óc con người, giải thích một cách duy tâm, thần bí những hiện tượng tự nhiên và xã hội diễn ra trong đời sống. Vì vậy, tôn giáo mang tính chất duy tâm, nhiều tín điều không được giải thích trên cơ sở khoa học. Trong lịch sử, tôn giáo đã nhiều lần sử dụng quyền lực của mình để đàn áp các nhà khoa học, phủ nhận thành tựu khoa học. Ngày nay, một mặt, các tổ chức và chức sắc tôn giáo triệt để tận dụng những thành tựu của khoa học để phát triển tôn giáo; mặt khác, họ tìm cách giải thích sai lệch những tiến bộ khoa học, kĩ thuật, gieo rắc trong các tín đồ những định mệnh không thể cưỡng lại… Tính chất duy tâm của tôn giáo đã kìm hãm sự phát triển và tiến bộ xã hội trong chừng mực nhất định.
3. Một số tôn giáo trên thế giới
Trên thế giới tồn tại nhiều tôn giáo khác nhau, các tôn giáo lớn là:
- Đạo Cơ đốc
- Đạo Thiên chúa (Công giáo): Công giáo là phái của đạo Cơ đốc, có giáo hội, do toà thánh Vatican điều khiển.
- Chính thống giáo: Thế kỉ XI, sự phân rã của đế quốc Bi-giăng-tin dẫn đến sự ly khai trong Kitô giáo thánh Công giáo – thế lực lớn nhất, thuộc phần Tây đế chế La Mã và Chính thống giáo ở phương Đông.
- Đạo Tin lành: Đạo Tin lành là phái của đạo Cơ đốc, tách khỏi đạo Thiên chúa sau cuộc vận động cải cách tôn giáo thế kỉ XVI;
- Anh giáo: Lập ra vào thế kỉ XVI, do vua nước Anh tách Công giáo ở Anh ra khỏi sự chỉ đạo của giáo hoàng.
Công giáo là tôn giáo có hệ thống giáo lý, luật lệ, lễ nghi rất phức tạp và chặt chẽ. Nội dung giáo lí gồm nhiều quan điểm triết học và thần học siêu hình được xây dựng có hệ thống từ đơn giản đến phức tạp. Giáo lý công giáo căn cứ vào kinh thánh và những lời giải thích của giáo hội. Đặc biệt, Công giáo đề cao thuyết thần quyền tuyệt đối (mọi việc đều do Chúa định) và thuyết giáo quyền tập trung (giáo hoàng là đại diện của Thiên chúa ở dưới trần gian). Là tôn giáo nhưng rất lớn đến chính sách của nhiều quốc gia.
b. Đạo Hồi (còn gọi là Hồi giáo hay đạo Islam):
Tôn giáo do Muhammad sáng lập vào thế kỉ VII, thờ thánh Allah. Đặc điểm của Hồi giáo là giáo lý tuy đơn giản nhưng luật lệ, lễ nghi rất chi tiết và khắt khe, nhiều khi vượt khỏi phạm vi tôn giáo, trở thành tiêu chuẩn pháp lý trong đời sống xã hội, hoà nhập vào toàn bộ đời sống của cộng đồng và từng cá nhân trong cộng đồng. Trong đạo Hồi, khó thấy ranh giới giữa đạo và đời, giữa cái thiêng và cái tục. Tin tưởng tuyệt đối, tôn sùng thánh Allah và sứ giả Muhammad là hai tín điều quan trọng vào bậc nhất của giáo lý đạo Hồi.
c. Đạo Phật:
Tôn giáo ra đời ở Ấn Độ thế kỉ VI trước công nguyên do Thích ca mâu ni sáng lập. Phật giáo có hệ thống triết học rất phát triển gồm cả thế giới quan và nhân sinh quan, trong đó đề cao vai trò của con người, thiên về một triết lí sống, một phương pháp rèn luyện nhân cách hướng thiện. Phật giáo không có tổ chức chặt chẽ, không có giáo quyền, không thống nhất về cách tu hành. Đạo Phật có hai phái là Tiểu thừa và Đại thừa, mỗi phái lại chia làm nhiều tông. Người theo đạo Phật gồm hai loại là người xuất gia tu hành và người tu tại gia.
4. Vấn đề quản lý tôn giáo tại Việt Nam
Việt Nam là nước đa tôn giáo, phần lớn dân cư chịu ảnh hưởng của Nho giáo và Phật giáo. Các tôn giáo lớn ở Việt Nam là Công giáo, Tin lành, Phật giáo, Hồi giáo, Cao đài và Phật giáo Hoà hảo; các tôn giáo này có hơn 15 triệu tín đồ. Các tôn giáo có nguồn gốc xuất hiện khác nhau và số lượng tín đồ khác nhau. Công giáo (với hơn 5 triệu tín đồ), Tin lành (với hơn 4 trăm nghìn tín đồ), Phật giáo (với hơn 7 triệu tín đồ), Hồi giáo (với hơn 90 nghìn tín đồ) được du nhập từ bên ngoài vào trong từng thời kỳ lịch sử và với những phương thức khác nhau. Trong khi đó, Cao đài (với hơn 1 triệu tín đồ) và Phật giáo Hoà hảo (với hơn 1 triệu tín đồ) là những tôn giáo xuất hiện ở Việt Nam.
Các tôn giáo đều thiết lập những mối quan hệ quốc tế nhất định và chúng tác động qua lại lẫn nhau chủ yếu thông qua những mối quan hệ đó.
Quản lí nhà nước về hoạt động tôn giáo là hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, hướng các hoạt động tôn giáo phục vụ lợi ích chính đáng của các tín đồ và phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Nhà nước bảo đảm thực hiện một cách đầy đủ nhất trên thực tế quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tôn giáo và tín đồ hoạt động tôn giáo đồng thời cũng kiên quyết đấu tranh chống lại sự lợi dụng tôn giáo. Những kẻ lợi dụng tôn giáo phục vụ cho ý đồ riêng của mình thực chất đã phá hoại tôn giáo, xúc phạm những giá trị chân chính, thiêng liêng của tôn giáo.
Vì vậy, đấu tranh ngăn chặn những hoạt động lợi dụng tôn giáo là một trong những nhiệm vụ của các cơ quan chức năng của Nhà nước cũng như các tổ chức tôn giáo và tín đồ tôn giáo chân chính.
Quản lí hoạt động tôn giáo là công việc luôn được Đảng và Nhà nước ta dành sự quan tâm đặc biệt. Chương trình hành động của Chính phủ số 1109/CP/VX ngày 15/9/1998 thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành trung ương Đảng (khoá VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã đề ra nhiệm vụ lập đề án xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh tại các công trình tín ngưỡng, tôn giáo như sau: Nhiều công trình tín ngưỡng, tôn giáo ngoài ý nghĩa sinh hoạt tâm linh còn là nơi sinh hoạt văn hoá của cộng đồng, thu hút đông người tham gia. Đó cũng là môi trường thường nảy sinh các tệ nạn xã hội và hủ tục nên phải có sự quy hoạch sắp xếp, hướng dẫn và quản lý của các cấp chính quyền để tạo ra môi trường văn hoá văn minh, sạch, đẹp, an toàn.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền con người được ghi nhận ở Điều 24 Hiến pháp năm 2013 như sau:
- Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
- Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
- Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.
Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước xây dựng hệ thống các nguyên tắc và xác định nội dung quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo. Việc xây dựng hệ thống các nguyên tắc quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo là cả một quá trình tìm tòi, thử nghiệm và đấu tranh. Quá trình ấy là sự phát triển từ thấp đến cao, từ chưa đầy đủ đến đầy đủ, từ chưa chuẩn xác đến chuẩn xác.
Các nguyên tắc quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo là:
- Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân và nghiêm cấm sự phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
Mọi công dân có quyền tự do theo hoặc không theo một tôn giáo nào, có quyền từ bỏ hoặc thay đổi tôn giáo.
Nhà nước bảo đảm quyền hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo theo quy định của pháp luật. Tín đồ có quyền thực hiện các hoạt động tôn giáo không trái với chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước, tiến hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện tại gia đình và tham gia các hoạt động tôn giáo, học tập giáo lý, đạo đức, phục vụ lễ nghi tôn giáo tại cơ sở thờ tự.
- Công dân có tín ngưỡng, tôn giáo hoặc không có tín ngưỡng, tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, được hưởng mọi quyền công dân và có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ công dân.
Trong những thời kỳ nhất định, Nhà nước có chính sách ưu tiên cho những người chuyên hoạt động tôn giáo nhằm tạo điều kiện cho họ thực hiện chức trách tôn giáo của mình. Mặt khác, Nhà nước cũng đặt ra những quy định cụ thể nhằm ngăn chặn sự lợi dụng việc tham gia hoạt động tôn giáo để trốn tránh nghĩa vụ công dân.
- Các hoạt động tôn giáo phải tuân theo pháp luật của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nhà nước không can thiệp vào công việc nội bộ các tôn giáo nhưng Nhà nước cũng không buông lỏng quản lí các hoạt động tôn giáo. Các quy định pháp luật về quản lý các hoạt động tôn giáo được bổ sung, sửa đổi thường xuyên cho phù hợp với yêu cầu quản lí trong từng giai đoạn, phù hợp với những thay đổi của tình hình trong nước và trên thế giới.
Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng và hợp pháp của tín đồ được bảo đảm. Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích của Tổ quốc và nhân dân được khuyến khích. Nhà nước có chính sách cụ thể và áp dụng những biện pháp cần thiết nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo tiến hành các hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng của các tín đồ và khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các hoạt động tôn giáo vì lợi ích của tổ quốc và nhân dân. Nhà nước tôn trọng sở thờ tự.
Như vậy, một mặt, Nhà nước quy định và thực hiện những biện pháp cần thiết nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; mặt khác, Nhà nước nghiêm cấm sự phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo.Trong những thời kỳ nhất định, Nhà nước có chính sách ưu tiên cho những người chuyên hoạt động tôn giáo nhằm tạo điều kiện cho họ thực hiện chức trách tôn giáo của mình. Mặt khác, Nhà nước cũng đặt ra những quy định cụ thể nhằm ngăn chặn sự lợi dụng việc tham gia hoạt động tôn giáo để trốn tránh nghĩa vụ công dân.
Nhà nước không can thiệp vào công việc nội bộ các tôn giáo nhưng Nhà nước cũng không buông lỏng quản lý các hoạt động tôn giáo. Các quy định pháp luật về quản lý các hoạt động tôn giáo được bổ sung, sửa đổi thường xuyên cho phù hợp với yêu cầu quản lý trong từng giai đoạn, phù hợp với những thay đổi của tình hình trong nước và trên thế giới.
Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng và hợp pháp của tín đồ được bảo đảm. Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích của Tổ quốc và nhân dân được khuyến khích. Nhà nước có chính sách cụ thể và áp dụng những biện pháp cần thiết nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo tiến hành các hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng của các tín đồ và khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các hoạt động tôn giáo vì lợi ích của tổ quốc và nhân dân. Nhà nước tôn trọng giá trị văn hoá, đạo đức tôn giáo, giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tưởng niệm và tôn vinh những người có công vói nước, với cộng đồng nhằm góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân.
- Mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mọi hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống lại nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, phá hoại sự nghiệp đoàn kết toàn dân, làm hại đến nền văn hóa lành mạnh của dân tộc và hoạt động mê tín dị đoan đều bị xử lí theo pháp luật.
Không ai được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Xem thêm: Phân tích phương pháp quản lý hành chính nhà nước