Khái niệm về người làm chứng được đề cập đến trong luật tố tụng dân sự và tố tụng hình sự với định nghĩa khác nhau dựa trên góc nhìn pháp lý. Bài viết sẽ phân tích và làm sáng tỏ cách hiểu của hệ thống pháp luật hình sự về người làm chứng.
Trong quan hệ pháp luật nói chung, người làm chứng là người có đủ điều kiện do pháp luật quy định, có mặt và trực tiếp làm chứng cho việc xảy ra của một sự kiện pháp lí nhất định.
1 – Khái niệm về người làm chứng
Giáo trình Khoa học điều tra hình sự – Đại học Luật Hà Nội quy định về người làm chứng như sau: “Người làm chứng là người biết được những tình tiết của vụ án đang điều tra, được cơ quan có thấm quyền tiến hành lấy lời khai về những hiểu biết đó của họ theo đúng trình tự, thủ tục mà luật tổ tụng hình sự quy định”.
Theo định nghĩa trên đây thì người làm chứng có hai đặc trưng cơ bản:
Trước hết, người làm chứng phải là người biết được những tình tiết của vụ án đang điều tra (có thể biết trực tiếp hay gián tiếp).
Người làm chứng phải là người được cơ quan có thẩm quyền lựa chọn và triệu tập lấy lời khai theo trình tự, thủ tục luật định.
Trong thực tiễn điều tra, có nhiều người biết những tình tiết của vụ án nhưng không trở thành người làm chứng, bởi vì hoặc là luật quy định những trường hợp này không được làm chứng; hoặc do cơ quan có thẩm quyền xét thấy không cần thiết phải triệu tập họ để lấy lời khai với tư cách người làm chứng trong vụ án.
Những người biết các tình tiết của vụ án được cơ quan có thẩm quyền triệu tập lấy lời khai thì phải có nghĩa vụ làm chứng, nếu họ từ chối hoặc không thực hiện đúng nghĩa vụ làm chứng (mà không có lý do chính đáng) thì có thể phải chịu những hậu quả pháp lý nhất định. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng những người không tố giác tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Điều 390 Bộ luật hình sự 2015.
Người làm chứng được quy định cụ thể tại Điều 66 Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015, chi tiết như sau:
“1. Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng.
2. Những người sau đây không được làm chứng:
a) Người bào chữa của người bị buộc tội;
b) Người do nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn”.
Xem thêm: Phân tích khái niệm và phân loại thực nghiệm điều tra
Xem thêm: Đi thực tế xem xét, thẩm định tại cho thực nghiệm điều tra
2 – Thuộc tính của chứng cứ trong tố tụng hình sự
(i) Tính khách quan của chứng cứ trong tố tụng hình sự:
(ii) Tính liên quan của chứng cứ trong tố tụng hình sự:
(iii) Tính hợp pháp của chứng cứ trong tố tụng hình sự: