Các hình phạt chính trong Luật Hình sự Việt Nam đối với người phạm tội.

0
28

Các hình phạt chính trong Luật Hình sự Việt Nam đối với người phạm tội.

Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật hình sự hiện hành, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó. Theo quy định tại khoản 1 Điều 32 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, hình phạt chính đối với người phạm tội bao gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình.

Để có đáp án nhanh nhất trong lĩnh vực pháp luật hành chính, gọi Tổng đài tư vấn pháp luật (24/7): 1900 6198

1- Cảnh cáo.

Căn cứ Điều 34 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:

“Cảnh cáo là sự khiển trách công khai của Nhà nước đối với người phạm tội về tội phạm mà họ đã thực hiện.”

Trong 7 hình phạt chính đối với người phạm tội thì cảnh cáo là hình phạt chính nhẹ nhất. Cảnh cáo thể hiện sự lên án công khai của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện khi hội đồng xét xử tuyên án đối với tội phạm mà họ đã thực hiện. Cảnh cáo tuy không có khả năng gây thiệt hại về vật chất cũng như hạn chế nhất định về thể chất cho người phạm tội nhưng với tính chất là sự khiển trách công khai của Nhà nước đối với người phạm tội, cảnh cáo vẫn có tác động nhất định đến tinh thần của người bị kết án để qua đó giáo dục họ. Hình phạt cảnh cáo được quy định, áp dụng cho người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS nhưng chưa đến mức được miễn hình phạt.

Xem thêm: nguyên tắc xây dựng phương pháp điều tra hình sự 

xem thêm: ngành luật hình sự 

 2 – Phạt tiền.

 Căn cứ Điều 35 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:

Phạt tiền là hình phạt buộc người phạm tội phải nộp một khoản tiền nhất định vào ngân sách nhà nước”

Phạt tiền tước đi lợi ích vật chất của người phạm tội, tác động đến tình trạng tài sản của họ và thông qua đó tác động đến ý thức, thái độ của người phạm tội. Phạt tiền cũng có tính răn đe, giáo dục đối với người khác và qua đó có khả năng phòng ngừa chung.

Phạt tiền có thể là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung.

Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng được BLHS quy định như tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 176 BLHS); tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 177 BLHS); tội tổ chức tảo hôn (Điều 183 BLHS) hoặc có thể đối với tội phạm rất nghiêm trọng nếu là tội xâm phạm trật tự quản lí kinh tế, tội phạm về môi trường, tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng hoặc tội phạm khác được BLHS quy định như tội buôn lậu (Điều 188 BLHS); tội vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới (Điều 189 BLHS); tội sản xuất, buôn bán hàng cấm (Điều 190 BLHS) V.V..

Mức phạt tiền được quy định tại các điều luật về các tội phạm cụ thể nhưng phải đảm bảo tối thiểu không được thấp hơn 1.000.000 đồng.

3 – Cải tạo không giam giữ.

 Căn cứ Điều 36 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:

“Cải tạo không giam giữ là hình phạt chính, buộc người phạm tội phải cải tạo, giáo dục tại nơi làm việc, học tập, cư trú dưới sự giám sát của cơ quan, tô chức nơi họ làm việc, học tập hoặc của chính quyền địa phương, nơi họ cư trú.”

Trong hệ thống hình phạt, cải tạo không giam giữ được coi là nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn nhưng nặng hơn phạt tiền và cảnh cáo. Cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, có nơi làm việc ổn định hoặc nơi cư trú rõ ràng và thấy không cần thiết phải cách ly khỏi xã hội.

Thời hạn của hình phạt cải tạo không giam giữ là từ 06 tháng đến 03 năm.

Việc giám sát người bị áp dụng hình phạt này được giao cho cơ quan hoặc tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc được giao cho ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú.

Trong thời gian chấp hành hình phạt này, người bị kết án  phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ hàng tháng một phần thu nhập từ 05% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Toà án có thể miễn khấu trừ thu nhập trong trường họp có lí do đặc biệt. Nếu người chấp hành án đang thực hiện nghĩa vụ quân sự thì không khấu trừ thu nhập của họ.

Trong trường hợp không có hoặc bị mất việc làm, người bị kết án phải lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong một tuần. Việc buộc lao động này không được áp dụng đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người bị khuyết tật nặng hoặc đặc biệt nặng.

Ngoài ra, người bị kết án còn phải thực hiện các nghĩa vụ được quy định trong Luật thi hành án hình sự.

Thời gian bị tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ.

4 – Trục xuất.

Căn cứ Điều 37 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:

“Trục xuất là hình phạt buộc người nước ngoài bị kết án trong thời hạn nhất định phải rời khỏi lãnh thỏ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam “

Trục xuất là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung tuỳ theo trường hợp được Toà án áp dụng. Khi quyết định hình phạt đối với người nước ngoài, Toà án căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và nhân thân của họ để quyết định trục xuất là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung.

5 – Tù có thời hạn.

Căn cứ Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:

“Tù có thời hạn là hình phạt chính, buộc người phạm tội phải cách li khỏi xã hội trong thời gian nhất định để giáo dục, cải tạo.”

xử phạt hành chính dưới 18 tuổi

Tù có thời hạn là hình phạt nghiêm khắc hơn hình phạt cải tạo không giam giữ. Sự hạn chế tự do của người bị kết án tù có thời hạn là nội dung pháp lí chủ yểu của loại hình phạt này. Tù có thời hạn có mức tối thiểu là ba tháng và mức tối đa là hai mươi năm. Trong trường hợp phạm nhiều tội, mức tối đa của hình phạt này là ba mươi năm.

Hình phạt tù có thời hạn không được áp dụng đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng.

Người bị kết án tù có thời hạn chấp hành án tại trại giam. Thời gian bị tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù.

6 – Tù chung thân.

Căn cứ Điều 39 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:

“Tù chung thân là hình phạt chính, buộc người phạm tội phải cách li khỏi xã hội suốt đời để giáo dục, cải tạo.”

Trong hệ thống hình phạt Việt Nam, tù chung thân là hình phạt rất nghiêm khắc, chỉ nhẹ hơn hình phạt tử hình, về điều kiện áp dụng tù chung thân, Điều 39 BLHS quy định, người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng chưa đến mức xử phạt tử hình thì xử phạt tù chung thân. Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, Toà án phải dựa vào các căn cứ quyết định hình phạt để lựa chọn một trong ba hình phạt: Tử hình, tù chung thân, tù có thời hạn (ở mức cao) để áp dụng đối với người phạm tội. Thông thường trong thực tiễn, hình phạt tù chung thân được áp dụng đối với trường họp đặc biệt nghiêm trọng mà nếu áp dụng hình phạt tù có thời hạn ở mức tối đa vẫn còn nhẹ nhưng nếu phạt tử hình thì chưa thật cần thiết.

Do tính chất nghiêm khắc của hình phạt tù chung thân và xuất phát từ nguyên tắc xử lí người chưa thành niên phạm tội, luật hình sự Việt Nam không cho phép áp dụng tù chung thân đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Trong thời gian chấp hành án tù chung thân, nếu người bị kết án có kết quả cải tạo tốt thì người người phạm tội có thể được giảm thời hạn chấp hành hình phạt.

7 – Tử hình.

Căn cứ Điều 40 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:

“Tử hỉnh là hình phạt chính, tước bỏ quyền song của người bị kết án.”

Tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt.

Tử hình chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội. Tử hình không đặt ra mục đích cải tạo và giáo dục người bị kết án nhưng vẫn có mục đích phòng ngừa riêng vì loại bỏ hoàn toàn khả năng phạm tội lại của người bị kết án. Ngoài ra, tử hình khi được áp dụng cũng có tác động đến ý thức của người khác trong xã hội. Tử hình được áp dụng với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma tuý, tham nhũng và một số tội đặc biệt nghiêm trọng khác như: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phá hoại hoà bình, chống loài người, tội phạm chiến tranh, tội khủng bố V.V..

Thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước, BLHS quy định không áp dụng hình phạt tử hình đối với 7 đối tượng sau:

Người phạm tội là người dưới 18 tuổi khi phạm tội;

Người phạm tội là phụ nữ có thai khi phạm tội;

Người phạm tội là phụ nữ có thai khi xét xử;

Người phạm tội là phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội;

Người phạm tội là phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi xét xử;

Người phạm tội là người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội;

Người phạm tội là người đủ 75 tuổi trở lên khi xét xử.

Đối với người bị kết án tử hình nếu thuộc một trong 4 loại đối tượng sau thì hình phạt tử hình không được thi hành: Người bị kết án là phụ nữ có thai; người bị kết án là phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; người bị kết án là người đủ 75 tuổi trở lên; người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lí tội phạm hoặc lập công lớn.

Trong trường hợp không thi hành án tử hình thì hình phạt tử hình được ân giảm thành tù chung thân. Người bị kết án tử hình có quyền xin Chủ tịch nước ân giảm án, trong trường hợp được ân giảm thì hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân.

Tử hình được hoãn thi hành nếu ngay trước khi thi hành người chấp hành án khai báo những tình tiết mới về tội phạm. Thi hành án tử hình được thực hiện bằng tiêm thuốc độc, thủ tục thực hiện việc tiêm thuốc độc do Chính phủ quy định. Thân nhân hoặc người đại diện hợp pháp của người chấp hành án có thể được nhận tử thi của người chấp hành án để an táng.

Trên đây là một số quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt chính đối với người phạm tội.

Nguồn: Giáo trình Luật hình sự (phần chung) Đại học Luật Hà Nội. 

TRẢ LỜI

Vui lòng nhập bình luận của bạn!
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây